Ngoại ứng, ngoại tác/Externalities
.
Thông tin chung
THUỘC NHÓM
Kinh tế vi mô
SỐ LƯỢT XEM
11166
NGÀY CẬP NHẬT
24/02/2009
Ngoại ứng, ngoại tác / Externalities
Ảnh hưởng tốt hoặc không tốt do các nhân tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của một công ty hay cho xã hội nói chung. Ảnh hưởng ngoại lai nảy sinh trong trường hợp hoạt động của một hoặc nhiều tập thể ảnh hưởng đến một hay nhiều tập thể khác. Nói cách khác, Ảnh hưởng ngoại lai là do sự không cân xứng giữa chi phí (hoặc lợi ích) tư nhân và chi phí (hoặc lợi ích) xã hội tạo nên; tức ảnh hưởng ngoại lai liên quan đến sự phụ thuộc lẫn nhau của các hàm lợi ích và (hoặc) các hàm sản xuất. Một ảnh hưởng ngoại lai tốt là hoạt động gây ngoại ứng làm tăng sản xuất hay lợi ích của bên bị tác động. Vd. một trại nuôi ong có thể làm lợi cho nông dân xung quanh do ong thụ phấn hoa mà tăng sản lượng; một bất lợi từ bên ngoài là khi hoạt động phát sinh do ảnh hưởng ngoại lai làm giảm sản xuất hay lợi ích của phía chịu ảnh hưởng này. Vd. một nhà máy sản xuất giấy hoặc chế biến nông sản ở đầu nguồn xả chất thải xuống sông, gây ô nhiễm nước sông, làm tổn hại đến sản xuất nông nghiệp và sức khoẻ của người dân sống ở gần đó. Một ảnh hưởng ngoại lai tương đương Pareto xảy ra khi mức độ của hoạt động có thể biến đổi theo cách mà bên bị ảnh hưởng có thể được lợi hơn và bên gây ra hoạt động không bị thiệt hại thêm, nghĩa là tại đó tồn tại khả năng thu lời từ trao đổi.
Có hai loại ảnh hưởng ngoại lai: ảnh hưởng ngoại tiền tệ và ảnh hưởng ngoại công nghệ. Ảnh hưởng ngoại tiền tệ tác động và làm thay đổi giá cả hàng hoá và dịch vụ. Một người mua (hoặc người bán) mua (hay bán) một loại hàng hoá nào đó có thể làm cho giá cả thứ hàng hoá đó của người mua (hay người bán) khác tăng (hoặc giảm đi). Ảnh hưởng ngoại công nghệ là phương thức công nghệ ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng của đơn vị khác. Do cơ chế giá không thể giải quyết vấn đề ảnh hưởng ngoại nên ảnh hưởng ngoại thường được miêu tả như là một hình thức của trục trặc thị trường.
Khái niệm ảnh hưởng ngoại do A. Marshall đề xuất sớm nhất, nhưng khoảng sau 1960 mới được ứng dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế.
Nguồn: bachkhoatoanthu