Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới/Neo Classical Macroeconomics
.
Thông tin chung
THUỘC NHÓM
Các trường phái Kinh tế học vĩ mô
SỐ LƯỢT XEM
606
NGÀY CẬP NHẬT
19/09/2013
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới / Neo Classical Macroeconomics
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới (Hay Kinh tế học vĩ mô tân cổ điển) (tiếng Anh: Neo Classical Macroeconomics) là bộ phận kinh tế học vĩ mô dựa trên kinh tế học vi mô tân cổ điển, hình thành từ thập niên 1970. Phái này xây dựng hệ thống học thuyết kinh tế học vĩ mô của mình từ nền tảng của kinh tế học vi mô, giả định là thị trường hoàn hảo dù là trong ngắn hạn hay dài hạn và cá nhân (khu vực tư nhân) có đầy đủ thông tin khi ra quyết định. Phái này chủ trương việc thiết kế các chính sách kinh tế vĩ mô phải nhằm mục đích tối đa hóa thỏa dụng của cá nhân. Những đóng góp quan trọng nhất của phái này vào kinh tế học vĩ mô gồm giả thuyết dự tính duy lý, tính không nhất quán theo thời gian, hàm cung Lucas, lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực.
Giữa thập niên 1930, kinh tế học vĩ mô được hình thành với những đóng góp cách mạng của Keynes. Kinh tế học vĩ mô Keynes và tiếp theo là kinh tế học vĩ mô tổng hợp nhấn mạnh những điểm không hoàn hảo của thị trường (tiền công cứng nhắc, bẫy thanh khoản, v.v...), coi đó là lý do để nhà nước tích cực sử dụng các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Có thể nói, trong thời kỳ từ thập niên 1930 đến thập niên 1960, kinh tế học vĩ mô về cơ bản là các lý luận của hai phái nói trên. Tuy nhiên, từ thập niên 1970, nhiều hiện tượng kinh tế như đình lạm, thâm hụt kép, v.v... đã không được hai phái giải đáp ổn thỏa. Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới xuất hiện và phản đối kinh tế học Keynes cũng như kinh tế học vĩ mô tổng hợp, phê phán lý luận của hai phái này là không có nền tảng kinh tế học vi mô và sử dụng giả thuyết dự tính hợp lý để bác bỏ các lý luận của hai phái này.
Kinh tế học tân cổ điển dựa trên các Giả thuyết Walrase. Các bên tham gia được giả sử là cố gắng tối đa hóa ích lợi (utility) dựa trên cơ sở kỳ vọng hợp lý. Bất cứ lúc nào, nền kinh tế được giả sử có một cân bằng (duy nhất), tại đó mọi người đều có việc (full employment) hoặc tại đó GDP đạt mức tiềm năng (sử dụng hết khả năng) thông qua các điều chỉnh về giá và lương (giá và lương sẽ lên xuống sao cho sản phẩm tiêu thụ hết và người lao động có việc hết). Tóm lại, thị trường là cân bằng (cung bằng cầu).
Tiên phong sử dụng các mô hình kinh tế đại diện (mô hình sử dụng một cá nhân hoặc một công ty làm đại điện cho toàn thể, các cá nhân hoặc công ty khác giống hệt). Các mô hình này gần đây bị phê phán nặng nề, bị chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa ứng xử trong kinh tế vi mô và trong kinh tế vĩ mô (Theo Kirman (1992)), và nền kinh tế vĩ mô không thể là phép cộng đơn giản của các cá nhân hay công ty giống hệt nhau. Theo cách nào đó, các phê phán này thuộc về Tranh cãi vốn Cambridge.
Kỳ vọng hợp lý lúc đầu được đưa ra bởi John Muth, sau đó được phổ biến bởi Robert Emerson Lucas. Một trong các mô hình nổi tiếng của Kinh tế học tân cổ điển là Mô hình chu kỳ kinh doanh thực, phát triển bởi Edward C. Prescott and Finn E. Kydland.
Nguồn: ST